Công tác bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu, Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã nêu rõ: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; là cơ sở, tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế – xã hội.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 7, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015.
Theo đó, sau một năm triển khai, những văn bản dưới Luật được ban hành, với nhiều nội dung được điều chỉnh phù hợp với thực tế quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành công của giai đoạn vừa qua, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 được xem là bước tiến quan trọng để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường trong giai đoạn mới. Để các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống đồng thời xác định rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp trong quá trình triển khai thực hiện Luật, việc nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân trong việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường hiện nay.
Cần tháo gỡ vướng mắc, bất cập
Theo nhận định của các chuyên gia môi trường thuộc Trung tâm Con người và Thiên nhiên, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và các văn bản dưới Luật đã cụ thể hóa được một số nội dung liên quan đến quyền môi trường. Chương II của Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã quy định cụ thể việc tham vấn trong xây dựng Quy hoạch bảo vệ môi trường và đánh giá tác động môi trường (ĐTM). Chương XV cũng đã quy định cụ thể về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp và cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường .
Tuy vậy, nội dung tham vấn và giám sát môi trường có nhiều điểm chưa được hướng dẫn rõ ràng trong 2 Nghị định số 19/2015/NĐ-CP, quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và Nghị định số 18/2015/NĐ-CP, về Quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường. Cụ thể Điều 21, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định đối tượng được tham vấn là cơ quan, tổ chức, cộng đồng chịu tác động trực tiếp bởi dự án. Việc xác định cụ thể đối tượng chịu tác động trực tiếp lại không đơn giản. Do dự án có nhiều giai đoạn và tác động ở mỗi giai đoạn khác nhau, vì vậy gồm những nhóm khác nhau. Ví dụ, đối với dự án thủy điện được triển khai, đối tượng chịu tác động trực tiếp từ dự án là các hộ dân trong lòng hồ nên họ được thông báo và lấy ý kiến. Nhưng khi dự án đi vào vận hành, nhóm bị tác động lớn về sinh kế và nguồn nước là những cộng đồng dân cư sinh sống ở vùng hạ lưu lại bị bỏ qua trong quá trình tham vấn.
Cùng với đó, Nghị định số 18/2015/NĐ-CP đã khắc phục những hạn chế của cơ chế “đại diện cộng đồng” trước đây, người dân đã được tham vấn trực tiếp thông qua họp cộng đồng dân cư do chủ đầu tư và UBND xã đồng chủ trì. Song bên cạnh những tiến bộ, vẫn còn những hạn chế, như chưa có tiêu chí để xác định “ý kiến khách quan và kiến nghị hợp lý” mà chủ đầu tư phải tiếp thu. Thêm nữa chưa có cơ chế rõ ràng về trách nhiệm giải trình của chủ đầu tư trong trường hợp không tiếp thu các ý kiến và kiến nghị bằng văn bản hay tại cuộc họp cộng đồng. Hình thức họp lấy ý kiến cộng đồng chưa được quy định rõ về quy trình thực hiện, bao gồm việc cung cấp thông tin và tài liệu trước tham vấn, số lần họp tối thiểu đề chia sẻ thông tin và giải đáp thắc mắc liên quan đến dự án, việc đánh gía kết quả họp cộng đồng trong văn bản trả lời tham vấn của UBND cấp xã đối với chủ đầu tư.
Ngoài ra, hiện nay đánh giá tác động đa dạng sinh học bị xem nhẹ hoặc lảng tránh trong báo cáo ĐTM do các nguyên nhân: Các bên liên quan chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của đa dạng sinh học, cũng như nguy cơ tác động đến hệ sinh thái, quần thể, loài sinh vật trong tự nhiên. Thiếu các quy định và hướng dẫn cụ thể về ĐTM trong đa dạng sinh học, bao gồm cả đối tượng và tiêu chí đánh giá phù hợp, tiêu chuẩn và phương pháp thống nhất đo, đếm mức độ tác động lên đa dạng sinh học, danh mục các dự án có nguy cơ ảnh hướng lớn đa dạng sinh học bắt buộc phải đánh giá tác động… Từ các bất cập trên cho thấy, do tính chất đặc thù của đánh giá tác động đa dạng sinh học, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần ban hành bổ sung các hướng dẫn kỹ thuật cụ thể. Việc thể chế hóa này cũng là tiền đề để từng bước nâng cao năng lực và nhận thức của các bên liên quan về đa dạng sinh học.
Một bất cập khác trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 là vấn đề giải quyết tranh chấp môi trường. Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Phương, Trường Đại học Luật Hà Nội: Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp môi trường thời gian vừa qua cho thấy, số lượng các vụ tranh chấp trong lĩnh vực này được giải quyết thành công chủ yếu thông qua hoạt động hòa giải, có sự tham gia của cơ quan nhà nước. Đây có thể là minh chứng cho tính ưu việt của hoạt động hòa giải trong thời gian qua so với hoạt động xét xử tại tòa án. Bởi vậy, cần quy định hòa giải tranh chấp môi trường, đặc biệt là tranh chấp bồi thường thiệt hại là một thủ tục bắt buộc trước khi khởi kiện tại tòa. Trong trường hợp không thể đòi bồi thường thiệt hại cần xây dựng quy định hỗ trợ chủ thể bị thiệt hại theo nguyên tắc trách nhiệm cộng đồng.
Hiện nay, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 vẫn thiếu cơ chế để thực hiện quyền của các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp, cộng đồng dân cư và cơ chế buộc công chức, cơ quan nhà nước thực hiện nghĩa vụ của mình. Luật chưa có quy định quyền được yêu cầu cung cấp thông tin môi trường của người dân. Luật mới quy định về giám định thiệt hại về môi trường mà chưa có quy định về giám định thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người bị thiệt hại. Pháp luật cũng chưa có quy định về phương thức chi trả tiền bồi thường đối với những người bị thiệt hại khi xác định được tổng mức thiệt hại và bên gây thiệt hại chấp nhận bồi thường với mức này. Vì vậy, Cơ quan chức năng cũng cần xây dựng quy định về giám định thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người bị thiệt hại, nguyên tắc, trình tự xác định thiệt hại đối với từng chủ thể bị thiệt hại trong tổng thiệt hại, hoặc cơ chế để thực hiện việc “phân bổ” tiền bồi thường cho những người bị thiệt hại trên nguyên tắc minh bạch, dân chủ, công bằng, công khai . Ngoài ra, cần áp dụng cơ chế bảo hiểm trách nhiệm về môi trường để chia sẻ trách nhiệm của người gây thiệt hại và đảm bảo tính kịp thời nhanh chóng có đủ khả năng tài chính để bồi thường. Mặc dù cơ chế này đã được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 nhưng đến nay vẫn thiếu quy định để thực hiện.
Đề xuất và kiến nghị
Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, trong thời gian tới cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2014; thường xuyên rà soát sửa đổi, bổ sung những quy định còn thiếu hoặc không phù hợp với thực tiễn. Trong đó, cần tiếp tục thể chế hóa và tăng cường hiệu quả của tham vấn trong quá trình thực hiện báo cáo ĐTM như xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật cho báo cáo ĐTM của các dự án đặc thù, xác định rõ các loại tác dộng của dự án theo các giai đoạn đầu tư, xây dựng, vận hành. Trong hướng dẫn quy trình thực hiện ĐTM và tham vấn, cần quy định rõ về trách nhiệm và chế tài đối với chủ đầu tư và cơ quan thẩm quyền về tiếp nhận và phản hồi thông tin. Công khai địa chỉ liên lạc của cá nhân, tổ chức chịu trách nhiệm phản hồi thông tin và quy định thời hạn phản hồi. Xây dựng cơ chế giám sát cụ thể, những phát hiện trong quá trình giám sát phải được báo cáo cho cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan này phải có biện pháp xử lý phù hợp. Hoàn thiện và cập nhật cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm và tiếp cận thông tin.
Tăng cường đối thoại giữa doanh nghiệp và địa phương với nhiều hình thức để lắng nghe phản hồi về các quy định được ban hành, từ đó tổng hợp, có kế hoạch sửa đổi bổ sung cho phù hợp. Về lâu dài, cần nghiên cứu hình thành khung pháp luật về bảo vệ môi trường sát với thực tế và yêu cầu của quản lý nhà nước nhằm hạn chế việc thay đổi trong một thời gian nhất định, gây lúng túng cho địa phương và doanh nghiệp.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, tập huấn hướng dẫn pháp luật về bảo vệ môi trường cho cơ quan quản lý nhà nước ở các địa phương và doanh nghiệp. Thông qua đó các cơ sở sản xuất kinh doanh nhận thức rõ về trách nhiệm cụ thể của mình và cách thức tuân thủ pháp luật, làm căn cứ cho việc triển khai trong thực tế; đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tuân thủ pháp luật của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Đây là hoạt động tạo sự chuyển biến ngay sau khi thanh tra, kiểm tra thông qua công cụ là xử phạt, tạm đình chỉ hoạt động, công khai thông tin vi phạm…