Limitless customization options & Elementor compatibility let anyone create a beautiful website with Valiance.

Liên hệ

NV 31, Khu đô thị Trung Văn, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội +024-3556-4001 contact@nature.org.vn Mở cửa: 8:00 - 17:30 Thứ Hai - Thứ Sáu
  • Comments Off on Tránh rủi ro khi đầu tư ra nước ngoài

Ngày càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam chọn đầu tư ra nước ngoài với mục đích thu ngoại tệ, mở rộng thị trường. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp không am hiểu chính sách pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư, các công ước quốc tế, chuyện gặp phải rủi ro là khó tránh khỏi.

Khối nội nhập siêu, ngoại xuất siêu35,5 tỷ USD vốn ngoại vào Việt Nam trong năm 2018Thành quả từ mở rộng thị trường xuất khẩu

Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KH&ĐT), năm 2018, doanh nghiệp (doanh nghiệp) Việt Nam đã có 149 dự án đầu tư ra nước ngoài được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn 376,2 triệu USD, 35 dự án điều chỉnh vốn với tổng số vốn tăng thêm 56 triệu USD.

Tính chung, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) năm 2018 đạt 432,2 triệu USD.

Bỡ ngỡ vì khác biệt

Lĩnh vực tài chính, ngân hàng được quan tâm đầu tư nhiều nhất với 105,8 triệu USD, chiếm 24,5% tổng vốn đầu tư. Tiếp đến là lĩnh vực bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 82,9 triệu USD, chiếm 19,2%.

Lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 52,3 triệu USD, chiếm 12,1% và lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 52,1 triệu USD, chiếm 12%. Trong năm 2018, doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư vào 38 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), đánh giá trải qua hơn 30 năm hội nhập và phát triển, Việt Nam hiện nay không chỉ là một nước tiếp nhận đầu tư hàng đầu trong khu vực, mà còn vươn lên trở thành một nước có nhiều doanh nghiệp, dự án đầu tư ra nước ngoài.

Trong các quốc gia tiếp nhận đầu tư từ các doanh nghiệp của Việt Nam, hai nước láng giềng là Lào và Campuchia có số lượng dự án và tổng số vốn cam kết đầu tư lớn nhất. Các lĩnh vực chủ yếu mà doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Lào và Campuchia là trồng và khai thác cây công nghiệp, lâm nghiệp, khai khoáng, năng lượng và viễn thông.

Tuy nhiên, bên cạnh những doanh nghiệp thành công, không ít doanh nghiệp bỡ ngỡ trước các vấn đề như pháp luật nước sở tại, phong tục, tập quán, văn hóa của người dân bản địa nên một số dự án đầu tư đã không đạt được hiệu quả về kinh tế như kỳ vọng.

Bà Nguyễn Thị Hải, Phó Tổng Giám đốc CTCP Đầu tư cao su Đăk Lăk, cho biết khó khăn nhất của doanh nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài là bất đồng ngôn ngữ và cách tiếp cận quy định pháp luật, văn hóa tập tục của người dân bản địa.

Bà Hải ví dụ như ở Lào, do người dân một số vùng còn hạn chế về trình độ, khó tiếp xúc bằng văn bản, nên thay vì quản lý bằng văn bản, doanh nghiệp đều phải thể hiện dưới dạng hình ảnh các chương trình tuyển dụng, đào tạo, chế độ bảo hiểm… giúp người dân dễ hiểu, dễ nhớ hơn.

Ông Phạm Quang Tú, đại diện Tổ chức Oxfam tại Việt Nam, đánh giá doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài gần 20 năm qua nhưng vì số lượng dự án, quy mô hạn chế nên không có nhiều kinh nghiệm, dẫn tới thường xuyên gặp phải những rủi ro không đáng có. Trong đó phải kể tới vấn đề doanh nghiệp không hiểu biết pháp luật của quốc gia tiếp nhận đầu tư.

Nguyên nhân là do đa phần doanh nghiệp đang đầu tư vào các nước kém phát triển hơn Việt Nam – hệ thống pháp luật chưa đầy đủ hoặc có những chính sách dù doanh nghiệp đã tìm hiểu nhưng họ thay đổi nhanh chóng, nếu không cập nhật được, chính doanh nghiệp sẽ vi phạm pháp luật.

Doanh nghiệp phải nắm rõ pháp luật nước sở tại để tránh rủi ro

Doanh nghiệp phải chủ động

Doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài thường mang theo tư duy, cách nghĩ của người Việt Nam. Chẳng hạn như về đất đai, nếu doanh nghiệp đầu tư ở Việt Nam sẽ được Nhà nước hỗ trợ thu hồi đất, nhưng sang Campuchia chế độ sở hữu đất đai sẽ khác.

Doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp cần một diện tích canh tác hàng chục nghìn héc ta, nếu không nắm rõ chính sách đất đai, mâu thuẫn với người dân là điều khó tránh khỏi.

Bên cạnh đó, đầu tư vào nông nghiệp như trồng cao su ít nhất 7-8 năm mới có thể thu hồi vốn; không giống như đầu tư sản phẩm công nghiệp như sản xuất một chiếc điện thoại vài tháng là xong. Trong khi giá cao su đang có xu hướng giảm, nên muốn tồn tại, doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh.

Bà Nguyễn Hoàng Phượng, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), cho rằng doanh nghiệp gia nhập “sân chơi” thế giới với nhiều tiêu chuẩn và quy định khác nhau, vậy nên ngoài tìm hiểu pháp luật nước sở tại, doanh nghiệp cần phải am hiểu các công ước quốc tế mà Việt Nam và những nước nhận đầu tư đã tham gia.

Bên cạnh đó, chính sách trong chuỗi giá trị đầu tư như khách hàng yêu cầu liên quan tới các vấn đề môi trường – xã hội, như EU “rút thẻ vàng” với thủy sản nếu đánh bắt trái phép, hay gỗ muốn xuất khẩu sang EU phải có nguồn nguyên liệu đảm bảo hợp pháp… Tuy nhiên, đây là những vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam vẫn thờ ơ, ít quan tâm.

Muốn phát triển khi đầu tư ra nước ngoài, theo bà Phượng, doanh nghiệp cần phải nhận diện rõ rủi ro mà mình sẽ phải đối mặt, qua đó có phương án phòng ngừa, tránh tình trạng hiện nay doanh nghiệp vẫn tập trung vào “chữa” hơn “phòng bệnh”. Để có thị phần lớn hơn trong “sân chơi” quốc tế, hưởng lợi từ các hiệp định thương mại tự do, mỗi doanh nghiệp cần chủ động, bởi càng chậm chân càng thua thiệt.

Ông Phạm Quang Tú cũng cho rằng doanh nghiệp Việt Nam phải chủ động để tìm hiểu, cập nhật những thay đổi thường xuyên của chính sách, có thái độ hợp tác với nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Điều đó có nghĩa doanh nghiệp đi đầu tư muốn tạo ra lợi nhuận nhưng lợi ích đó phải được san sẻ với chính quyền, người dân ở quốc gia mà mình đang đầu tư.

Nhìn từ góc độ nhà quản lý, ông Vũ Văn Chung, Phó Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, khuyến nghị bản thân doanh nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài phải ý thức hơn trách nhiệm trong vấn đề tìm hiểu cơ chế chính sách pháp luật Việt Nam, các văn bản điều ước quốc tế và pháp luật nước sở tại.

Trong đó, các cơ quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm hỗ trợ cho các nhà đầu tư về chính sách, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc mà họ gặp phải. Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp cần phải hợp tác chặt chẽ với các cơ quan này.

Ông Phạm Quang Tú – Đại diện Tổ chức Oxfam

Tương lai các doanh nghiệp Việt Nam có thể trở thành các tập đoàn xuyên quốc gia như Samsung, Intel… Muốn xây dựng được thương hiệu toàn cầu, doanh nghiệp Việt Nam cần phải tạo dựng được sản phẩm tốt, chỉ khi doanh nghiệp làm tốt từng công đoạn một, thương hiệu mới phát triển.

Ông Vũ Văn Chung – Phó Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài

Khi đầu tư ra nước ngoài, mỗi doanh nghiệp chính là người đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, hình ảnh đất nước Việt Nam. Bởi vậy, ngoài việc quan tâm tới hiệu quả kinh tế, lợi nhuận cho mình, mỗi doanh nghiệp phải luôn ý thức bảo vệ môi trường, đóng góp cho cộng đồng xã hội.

Ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI

Chúng ta vẫn thường có những tranh luận chính sách về việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, với những tác động cả tích cực và tiêu cực. Tương tự như vậy, chúng ta hiểu rằng các nước tiếp nhận đầu tư từ Việt Nam cũng có những mối quan tâm tương tự từ những dự án có vốn của Việt Nam. Do đó, Việt Nam cần phải có những biện pháp linh hoạt, cần thiết để bảo đảm các khoản đầu tư ra nước ngoài phù hợp với pháp luật quốc tế, pháp luật nước sở tại, đạt những lợi ích cả về kinh tế và môi trường.

Nguồn: Thời báo Kinh doanh

Cập nhật

Cùng tham gia "Bớt củi - Giữ rừng"
Tham gia