Tính chất và mức độ ảnh hưởng của xung đột về sử dụng nguồn nước sông Mê Kông khiến người ta ví nó như một biển Đông thứ hai.
Nhưng vấn đề là làm sao giải quyết những tranh chấp đó?
Cuối tháng 10 vừa rồi, đập thủy điện đầu tiên ở hạ lưu sông Mê Kông – đập Xayaburi 1.285 megawatt – bắt đầu đi vào hoạt động thương mại tại Lào, giữa lúc dân làng ở Thái Lan biểu tình phản đối.
Người biểu tình cho rằng đập Xayaburi và nhiều công trình khác đang được thi công sẽ phá hủy sinh kế của họ trong tương lai, theo Reuters.
Đây là con đập đầu tiên trong số ít nhất là dự án thủy điện đang được xây dựng hoặc dự kiến xây dựng ở hạ lưu sông Mê Kông tại Lào, theo hãng tin Reuters.
Đập này khởi sự hoạt động vào lúc mà nhiều khu vực trên dòng sông Mê Kông bị khô nước dù đang ở cuối mùa mưa.
Sự kiện này càng cho thấy tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp việc sử dụng nguồn nước trên sông Mê Kông.
Nếu tranh chấp ở Biển Đông là tranh chấp chủ quyền, thì nguồn nước sông Mê Kông lại là cuộc đấu tranh về quyền sử dụng nguồn tài nguyên nước xuyên biên giới.
Lo ngại về sự gia tăng quyền lực của Trung Quốc
Ông Brian Eyler, Giám đốc chương trình Đông Nam Á, Trung tâm nghiên cứu Stimson tại Washington D.C, Mỹ, và cũng là tác giả cuốn ‘The Last Days of Mighty Mê Kông’ (tạm dịch là Những ngày cuối của dòng Mê Kông vĩ đại), nhận xét với BBC News Tiếng Việt rằng:
“Tranh chấp nước sông Mê Kông có một số điểm tương đồng với tranh chấp Biển Đông, nhưng những gì đang xảy ra ở sông Mê Kông hiện đang làm tổn thương trực tiếp đến túi tiền và nồi cơm của người dân. Bởi vậy, sông Mê Kông đã trở thành vấn đề an ninh kinh tế và lương thực quan trọng với tất cả các nước hạ nguồn.”
Theo ông Brian, hiện nay, trên sông này, có hơn 100 đập thủy điện đã hoàn thành và hoạt động trong lưu vực sông Mê Kông. Trong đó, Lào có 63, Trung Quốc 11, Thái Lan 9, Việt Nam 16 và Campuchia 2.
“Các đập của Trung Quốc ở thượng nguồn sông Mê Kông giữ lại một lượng nước khổng lồ. Trong mùa gió mùa, lượng nước từ các đập của Trung Quốc chỉ chiếm nhỏ hơn 7% lượng nước trong toàn bộ hệ thống nên không tác động nhiều.
“Nhưng trong mùa khô và thời kỳ hạn hán, nước từ các đập thượng nguồn của Trung Quốc chiếm 40-50% lượng nước trong hệ thống Mê Kông. Vì vậy, vào thời gian đó, việc các đập của Trung Quốc vận hành thế nào sẽ ảnh hưởng rất lớn.
“Trung Quốc có thể dùng các đập này để giảm hạn hán ở hạ lưu nếu họ muốn. Theo nghĩa này, Trung Quốc có một mức độ quyền lực nhất định với các quốc gia hạ nguồn. Vì vậy, các nước ở hạ nguồn cần thỏa thuận với Trung Quốc trong điều tiết các đập nhằm bảo đảm lượng nước tối thiểu trong mùa khô và trong thời kỳ hạn hán.
“Điều không may là, Trung Quốc đã không dễ dàng đồng ý làm vậy và trên thực tế, không quốc gia nào ở hạ lưu sông Mê Kông có những thỏa thuận như vậy,” ông Brian nói.
Giải cứu sông Mê Kông cách nào
Trong cuộc tranh chấp nguồn nước Mê Kông, phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, Việt Nam ở thế yếu hơn so với các nước khác do nằm ở cuối nguồn.
Nhưng cũng chính vì thế mà Việt Nam càng cần sử dụng các cơ chế hợp tác khu vực và các cơ sở pháp lý quốc tế liên quan, như Công ước về nước của Liên hợp quốc, Hiệp định Mê Kông… để đàm phán và bảo vệ quyền lợi của mình.
Cơ chế hợp tác quốc tế có giá trị pháp lý duy nhất hiện nay cho việc quản lý và sử dụng nguồn nước ở hạ lưu sông Me Kong là thông qua Ủy hội sông Mê Kông Quốc tế.
Ông Trịnh Lê Nguyên, Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), phân tích với BBC News Tiếng Việt: “Dù về mặt chính thức các quốc gia thành viên Ủy hội sông Mê Kông Quốc tế vẫn tuyên bố tinh thần hợp tác để quản lý và sử dụng bền vững nguồn nước chung. Nhưng thực tế cho thấy, các quốc gia thượng nguồn vẫn chủ trương tối đa hóa lợi ích về mình.”
Còn ông Brian thì cho rằng, các quốc gia hạ nguồn cần hợp tác với nhau để xây dựng thỏa thuận với Trung Quốc nhằm bảo đảm có được lượng nước tối thiểu trong mùa khô và trong thời kỳ hạn hán. Theo ông, Cơ chế hợp tác Lancang – Mê Kông mà Trung Quốc đề xướng gần đây đã nói về việc sử dụng các con đập để giảm hạn hán. Bởi vậy, đây có lẽ là thời điểm tốt để thúc đẩy thương thảo cho một thỏa thuận như vậy.
Tuy nhiên, ông Brian cũng nhìn nhận rằng, các nước ở hạ nguồn cần tận dụng sức mạnh của Ủy hội sông Mê Kông Quốc tế để kêu gọi sự phối hợp, thay vì cho phép Cơ chế Hợp tác Lancang – Mê Kông vì cơ chế này sẽ đem tới cho Trung Quốc quá nhiều quyền lực đối với thượng nguồn.
Trong khi đó, cũng theo ông Brian, ASEAN thực sự chưa bao giờ quan tâm đến các vấn đề của Mê Kông.
Việt Nam có thể làm gì?
Mất quyền chủ động sử dụng nguồn nước Mê Kông sẽ có ảnh hưởng dài hạn lên kinh tế – xã hội của Việt Nam. Hậu quả có thể không xảy ra ngay lập tức, nhưng theo như các nghiên cứu ở quy mô lưu vực, nhiều tác động là lâu dài và không thể đảo ngược.
Theo ông Trịnh Lê Nguyên, với viễn cảnh toàn bộ 11 đập dòng chính phía hạ lưu có khả năng sẽ được xây dựng, Việt Nam sẽ phải thay đổi toàn bộ định hướng phát triển đồng bằng sông Cửu Long để thích ứng.
“Ở vị thế quốc gia cuối nguồn, trong trường hợp này, Việt Nam không có nhiều lựa chọn. Đồng bằng sông Cửu Long chắc chắn sẽ thay đổi, sẽ rất khác so với khi con sông Mê Kông còn duy trì được dòng chảy tự nhiên tương đối,” ông Nguyên nói.
Khi con đập đầu tiên ở phía hạ lưu là Xayaburi được xây dựng, phía Việt Nam đã liên tục nêu các quan ngại về tác động của các công trình sử dụng nước dòng chính lên phía cuối nguồn, đe dọa sự bền vững của cả khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
Liên minh Cứu sông Mê Kông (Save the Mê Kông Coalition – SMC) cũng như Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam đã có thông cáo phản hồi về việc Chính phủ Lào đệ trình đề xuất đập Luang Prabang lên Ủy hội sông Mê Kông quốc tế.
Dự án này do một liên danh ba bên, gồm PV Power, chính phủ Lào và một nhà đầu tư của Thái Lan thực hiện. Trong đó, PV Power – công ty con của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam – đứng vai trò chính, theo ông Trịnh Lê Nguyên.
Ông Nguyên nhận định rằng việc một doanh nghiệp Việt Nam tham gia xây dựng con đập thứ năm trên dòng chính sông Me Kong ở phía hạ lưu có nguy cơ làm yếu tiếng nói của Chính phủ Việt Nam trong các đàm phán về quản lý và sử dụng nguồn nước con sông quốc tế này.
“Tập đoàn Dầu khí Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, nếu PV Power vẫn tiếp tục triển khai dự án này có thể được các bên hiểu là phía Việt Nam đã chính thức tham dự vào xây đập thủy điện dòng chính. Điều đó đồng nghĩa với việc các dự án tiếp theo trong chuỗi đập trong kế hoạch sẽ được xây dựng mà không còn vấp phải nhiều phản đối,” ông Nguyên nói. |
Ông Brian cũng chung nhận định khi cho rằng, làm điều đó chẳng khác nào Việt Nam tự bắn vào chân mình.
Ông nói: “Việc một công ty Việt Nam tìm cách xây dựng đập Luang Prabang trên dòng chính sông Me Kong ở Lào, theo tôi, Việt Nam đang phạm sai lầm lớn. Họ tự bắn vào chân mình bằng một kế hoạch có thể làm hỏng một số kế hoạch cứu đồng bằng châu thổ sông Me Kong mà Hà Nội tìm cách thực hiện trong năm tới.”
Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, ông cho rằng, Việt Nam cần tăng cường hợp tác với Lào.
“Tôi nghĩ, Việt Nam nên tham gia vào cùng với Lào để mua thêm năng lượng và giúp họ trong quá trình trở thành “Năng lượng của Đông Nam Á.” Điều này nghe hơi trái, nhưng không có nghĩa là Việt Nam mua điện từ các dự án thủy điện lớn ở Lào.
“Thay vào đó, Việt Nam có thể chia sẻ kinh nghiệm phát triển ngành năng lượng tái tạo với Lào. Việt Nam cũng có thể đầu tư vào các đập được bố trí ở các khu vực của sông Mê Kông ít ảnh hưởng hơn so với các đập chính. Chẳng hạn, xây dựng một con đập trên một nhánh sông phía trên một con đập hiện có sẽ ít ảnh hưởng đến hạ lưu.”
Còn ông Phạm Phan Long, Chủ tịch tổ chức phi chính phủ Viet Ecology Foundation, ở Hoa Kỳ, nói với BBC News Tiếng Việt rằng, các nước Mê Kông cần sớm có một cuộc cách mạng về chính sách năng lượng.
“Tôi đã thấy tiềm năng năng lượng mặt trời của ba nước đủ cho họ tự giải thoát khỏi lời nguyền thủy điện Mê Kông và gọng kềm Trung Quốc.
“Lào có thể hủy bỏ cả ba dự án thủy điện Pak Lay-Pak Beng-Luang Prabang thay bằng dự án năng lượng mặt trời nổi ngay trên hồ Nam Ngum. Campuchia có thể bỏ hai dự án Sambor Stung Treng và có thể bỏ các dự án nhiên liệu hóa thạch khác nếu thay chúng bằng dự án năng lượng mặt trời trên hồ Tonle Sap.
“Và Việt Nam cũng có thể bỏ các nhà máy điện than trong quy hoạch trên Đồng bằng sông Cửu Long thay bằng dư án tương tự trên hồ Trị An,” ông Long nói.