Limitless customization options & Elementor compatibility let anyone create a beautiful website with Valiance.

Liên hệ

NV 31, Khu đô thị Trung Văn, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội +024-3556-4001 contact@nature.org.vn Mở cửa: 8:00 - 17:30 Thứ Hai - Thứ Sáu

Luật Lâm nghiệp đã có những thay đổi đáng chú ý, đặc biệt là về thu hút đầu tư tư nhân vào rừng và lâm nghiệp. Tuy nhiên, để thu hút đầu tư vào hai lĩnh vực đặc biệt quan trọng này, điều cần thiết nhất là bảo hộ quyền cho các nhà đầu tư.

Vai trò của cộng đồng trong bảo vệ rừng

Thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp, cả nước có 10.006 cộng đồng dân cư thôn, chủ yếu là người dân tộc thiểu số quản lý và sử dụng 2.792.946,3ha rừng và đất trống đồi trọc. Trong diện tích đất lâm nghiệp có rừng thì rừng tự nhiên chiếm 96% diện tích đất có rừng được giao cho cộng đồng quản lý thông qua “hệ thống tâm linh” và các thiết chế xã hội truyền thống và luật tục. Mặc dù về mặt pháp lý, các quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng chưa được xác lập, nhưng trên thực tế, nó đang được điều tiết một cách không chính thức bởi các luật tục truyền thống.

Ông Nguyễn Việt Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) cho biết, Việt Nam hiện có từ 24 – 30 triệu người dân có sinh kế sống dựa vào rừng, trong đó số lượng người dân được tiếp cận, nhận giao đất, giao rừng chỉ khoảng 2 triệu hộ. Vì vậy, các nhóm còn lại chủ yếu là người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số có sinh kế sống dựa vào rừng từ lâu đời, vô tình trở thành những người ngoài cuộc và là đối tượng xâm lấn rừng tiềm tàng đối với các diện tích rừng tự nhiên đã được giao phần lớn cho các công ty lâm nghiệp, các ban quản lý rừng hay các chủ rừng khác.

Đại biểu Quốc hội Mùa A Vảng (Điện Biên) cho rằng, cuộc sống của người dân gắn chặt với rừng, chỉ khi nào người dân thấy bảo vệ rừng bảo đảm cuộc sống của họ thì rừng sẽ được bảo vệ tốt hơn. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các hộ gia đình, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp bảo vệ rừng, tái sinh rừng tự nhiên đồng thời giao Chính phủ quy định chính sách đặc thù cho vùng, miền để bảo vệ tốt rừng, khu vực xung yếu, biên giới và khu vực cung cấp các nguồn nước chính cho các thủy điện lớn. Đại biểu Quốc hội Lưu Văn Đức (Đắk Lắk) cũng đề nghị giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng phải bảo đảm tôn trọng không gian sinh tồn, không gian văn hóa, phong tục, tập quán quản lý rừng của cộng đồng dân cư và bảo đảm hộ gia đình, cộng đồng dân cư có cuộc sống sinh hoạt gắn bó với rừng, có truyền thống quản lý, bảo vệ rừng hiệu quả, được giao rừng và cho thuê rừng gắn với quyền sử dụng đất để thực hành sinh kế, văn hóa tín ngưỡng gắn với rừng tại địa phương.

 Theo GS. Đặng Hùng Võ cần việc ưu tiên giao rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại chỗ hoặc các điều về quyền và nghĩa vụ của các chủ rừng. Bảo đảm cho đồng bào dân tộc miền núi có thể sống bằng nghề rừng, có thu nhập bảo đảm từ rừng. Quyền của người dân sống ở vùng lõi các rừng đặc dụng, rừng bảo tồn với các ban quản lý rừng, các vườn quốc gia. Người dân địa phương cần có quyền tiếp cận rừng, được khai thác các lâm sản phụ như mây, tre, nứa, cây dược liệu, được xen các cây hoa màu, cây dược liệu dưới tán rừng để bảo đảm cuộc sống.Chủ rừng phải có lợi ích xứng đáng

Tính đến hết tháng 12.2016, hơn 2,5 triệu hecta rừng tự nhiên đã được giao cho các chủ thể ngoài Nhà nước gồm hộ gia đình, cộng đồng và các tổ chức kinh tế thông qua các chương trình giao đất, giao rừng từ những năm 1990. Trải qua hàng chục năm, các diện tích này từ đất trống, rừng nghèo kiệt đã được các chủ thể quản lý, đầu tư trồng mới hoặc khoanh nuôi tái sinh tự nhiên trở thành rừng non, thậm chí là rừng trung bình…

Tuy vậy, theo quy định hiện nay thì tài nguyên rừng thuộc sở hữu toàn dân. Trong suốt quá trình nhận giao rừng, dù các chủ thể này có quyền khai thác “giá trị gia tăng của trữ lượng gỗ đã tạo thành do công sức đầu tư của họ”, song lại không thể thực hiện được quyền này trong thực tế. Bởi từ đầu năm 1990, chính sách cấm khai thác gỗ thương mại rừng tự nhiên và chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên do Chính phủ chỉ đạo vẫn còn hiệu lực, đã vô hình trung “khóa chặt” cơ hội được hưởng lợi từ rừng tự nhiên của các chủ thể nhận giao rừng.

Luật Bảo vệ và phát triển rừng ban hành năm 2004 đã đánh dấu một bước tiến lớn khi thể chế hóa “quyền sở hữu rừng” cho chủ rừng sản xuất là rừng trồng, nhưng nhìn tổng thể, quyền sở hữu rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên ở Việt Nam vẫn chưa được thừa nhận một cách đầy đủ. Tư duy, lý luận về quyền sở hữu rừng, quyền kinh doanh rừng, quyền hưởng các nguồn lợi từ rừng… chưa rõ ràng, minh bạch, khi phần lớn diện tích rừng và đất rừng vẫn do các tổ chức nhà nước quản lý và sử dụng. Với khung pháp lý hiện nay, các chủ rừng chỉ có quyền chiếm hữu và sử dụng rừng, đất rừng trong khi quyền định đoạt vẫn thuộc về Nhà nước. Các chủ rừng đặc dụng, phòng hộ không có quyền định đoạt đối với rừng mà chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng dưới sự giám sát của các cơ quan chức năng về lâm nghiệp.

Sau hơn 10 năm thực hiện, tháng 12.2015, Bộ NN – PTNT đã tiến hành rà soát, đánh giá và trình hồ sơ sửa đổi Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004 lên Chính phủ. Một trong những điểm mới đáng chú ý nhất của dự thảo Luật là đã đặt nội dung hưởng lợi từ rừng ở vị trí trung tâm nhằm tạo động lực trong bảo vệ, phát triển rừng, cũng như đẩy mạnh phát triển nghề rừng trong nền kinh tế thị trường. Những quy định và nội dung sửa đổi về sở hữu, quyền và nghĩa vụ đối với tài nguyên rừng và đất rừng trong dự thảo Luật này phải đáp ứng được nhu cầu sinh kế của người dân sống gắn bó với rừng, hướng tới các mục tiêu rõ ràng hơn là bảo vệ rừng, cũng như hài hòa các mối quan hệ xã hội, thể chế quản lý đối với tài nguyên rừng, đất rừng trong thực tiễn, trở thành một nền tảng quan trọng, giúp bảo hộ quyền của các chủ thể, đặc biệt là hộ gia đình và cộng đồng, từ đó giúp thúc đẩy quản trị rừng theo hướng minh bạch, công bằng hơn, bảo đảm hiệu quả về cả kinh tế, môi trường và xã hội. 

Anh Hiến (Nguồn: Đại biểu Nhân dân)

Leave A Comment

Cập nhật

Cùng tham gia "Bớt củi - Giữ rừng"
Tham gia